Địa Hoàng

  • Tên sản phẩm: Địa Hoàng
  • Nhà sản xuất: Benhvienthongminh
  • Dòng sản phẩm: phòng và chữa bệnh
  • Điểm thưởng: 150
  • Số lượng sản phẩm trong kho: 14
  • 2.500.000đ
  • Giá chưa VAT: 2.500.000đ
  • Giá điểm thưởng: 100
  • 10 hoặc nhiều hơn, giá 2.100.000đ

Một cây thuốc mà y học Trung Quốc cho là thần dược. Một cây thuốc mà trước kia ở Việt Nam ta chưa có, nay đã trồng được. Vì vậy, Vụ Y học Cổ truyền đã đưa nó vào danh mục cây thuốc trồng trọt trong nước là chính. Một  cây thuốc mà cùng một rễ củ của nó cho ta hai vị thuốc: Sinh địa và Thục địa. Đó là cây Địa Hoàng.

 

Nguồn gốc 

Địa hoàng là cây thuốc quý cho 2 vị thuốc: Sinh địa (tức là củ Địa hoàng còn sống) và Thục địa (tức là củ Địa hoàng đã được nấu chín). Cả hai vị thuốc Sinh địa và Thục địa đều nằm trong đầu vị thuốc Bắc. Trước kia ở nước ta chưa có cây Địa hoàng. Năm 1958 ta nhập giống từ Trung Quốc. Viện Dược liệu đã nghiên cứu di thực thuần hóa và đưa vào phát triển trồng đại trà. Trong thập kỷ 70, hầu như năm nào ta cũng tự trồng được Sinh địa và Thục địa, không phải nhập dược liệu từ nước ngoài nữa. Những tỉnh trước đây trồng nhiều Địa hoàng là: Hải Hưng, Hà Bắc, Hà Nam Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc, ngoại thành Hà Nội. Các tỉnh khác cũng có trồng nhưng ít hơn. Sau giải phóng miền Nam, Địa hoàng còn được trồng ở một số tỉnh phía Nam.

Mô tả 

Địa hoàng có tên khoa học là: Rehmania Glutinosa Gaertn Libosch thuộc họ Hoa Mõm chó (Scrophulariaceae). Địa hoàng là cây thân thảo cao từ 20cm đến 40cm. Toàn cây có lông màu tro hơi trắng. Thân rễ phình thành củ, lúc đầu mọc thẳng, sau đâm ngang. Đường kính thân củ từ 1cm đến 4cm. Lá mọc vòng ở gốc. Phiến lá hình trứng ngược (đầu to ở ngoài, đầu bé ở cuống). Lá dài từ 3cm-15cm, rộng từ 1-6cm. Mép lá có răng cưa không đều, phiến lá không phẳng có nhiều gân ở mặt dưới. Hoa hình chuông mọc thành chùm ở đầu cành. Tràng dài từ 3-4cm, màu tím sẫm, mặt trong hơi vàng và lốm đốm tím. Có 4 nhị (2 lớn, 2 bé). Rất hiếm khi thấy quả.


B. Phân bố, sinh thái:

  • Loài cây của Trung Quốc. Từ năm 1958 nhập trồng ở nước ta, hiện nay được phát triển trồng ở nhiều nơi từ Bắc đến Nam.
  • Địa hoàng có nguồn gốc từ vùng ông đới ấm của Trung Quốc nên cây trồng ở Việt Nam thường đúng vào thời kỳ nhiệt độ trong năm thấp dưới 30 độ C. Khi thời tiết nắng gắt, mưa nhiều đã có thể thu hoạch. Địa hoàng ra hoa kết quả nhiều nhưng người ta thường tận dụng khả năng tái sinh vô tính – nảy mầm tốt của rễ củ làm cây giống để trồng. Nhân giống bằng những mầm rễ, mỗi mầm dài 1-2cm.

C. Thu hái, chế biến:

  • Sau khi trồng 6 tháng rưỡi có thể thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch hai vụ vào các tháng 2-3 và 8-9. Chọn ngày nắng ráo để đào củ. Củ Địa hoàng tươi hình thoi hay hình trụ cong queo, dễ bẻ gẫy; mặt ngoài màu vàng đỏ, có những vùng thắt lại chia củ thành từng khoanh. Trên các rãnh có vết của mầm.

D. Bộ phận dùng:

  • Rễ củ
  • Tuỳ theo cách chế biến, ta có Sinh địa hoàng và Thục địa hoàng.

– Sinh địa: Củ Địa hoàng đã được chọn lựa, rồi rải vào lò sấy; sấy trong 6-7 ngày cho khô đều.
– Thục địa: Củ Địa hoàng lấy về, ngâm nước, cạo sạch đất. Lấy những củ vụn nát nấu lấy nước, nước đó tẩm những củ đã được chọn rồi đem đồ, đồ xong lại phơi, phơi khô lại tẩm. Tẩm và đồ như vậy được 9 lần, khi màu thục đen nhánh là được. Khi nấu không dùng nồi kim loại như đồng, sắt. Tuỳ từng nơi, người ta áp dụng cách chế biến có khác nhau, có thể dùng rượu nấu rồi lại dùng nước gừng ngâm, lại nấu tiếp tới khi có thục màu đen. Do cách chế biến mà tính chất của Sinh địa và Thục địa có khác nhau.

E. Thành phần hoá học:

  • Trong rễ có catalpol, mannit, rehmannin, glucose và một ít caroten. Còn có tới 15 acid amin và D-glucozamin, acid phosphorie và các cacbohydrat, chủ yếu là stachyoza; còn có chất campesterol.

F. Tác dụng dược lý: 

+ Tác dụng kháng viêm: Nước sắc Địa hoàng có tác dụng kháng viêm. Đối với chuột cống thực nghiệm gây viêm bằng Formalin vùng chân đùi, thuốc làm giảm viêm rõ (Trung Dược Học).

+ Tác dụng đối với đường huyết: Địa hoàng làm hạ đường huyết. Có báo cáo cho rằng Địa hoàng làm tăng cao đường huyết nơi chuột cống hoặc không ảnh hưởng đến đường huyết bình thường nơi thỏ (Trung Dược Học).

+ Nước sắc Địa hoàng có tác dụng cường tim, hạ áp, cầm máu, bảo vệ gan, lợi tiểu, chốngchất phóng xạ, chống nấm (Trung Dược Học).

+ Đối với hệ miễn dịch: Nước sắc Địa hoàng có tác dụng ức chế miễn dịch kiểu Corticoid nhưng không làm ức chế hoặc teo vỏ tuyến thượng thận. Thực nghiệm cho thấy Sinh địa, Thục địa đều có thể làm giảm tác dụng ức chế chức năng vỏ tuyến thượng thận của Corticoid (Trung Dược Học).
Độc tính:

Tác dụng phụ của Thục địa nhẹ, bao gồm tiêu chảy, bụng đau, chóng mặt thiếu khí, hồi hộp. Những triệu chứng này thường hết khi ngưng uống thuốc(Chinese Herbal Medicine).


G. Tính vị, công năng:

Địa hoàng tươi có vị ngọt, đắng, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt, mát máu. Sinh địa hoàng (Củ địa hoàng khô) có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tư âm dưỡng huyết. Thục địa hoàng có vị ngọt, mùi thơm, tính hơi ôn; có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm, bổ huyết, làm đen râu tóc.

Người ta đã chứng minh được tác dụng chống đường huyết, tác dụng cầm máu, lợi tiểu, kháng sinh của Địa hoàng.

H. Công dụng:

  • Sinh địa dùng chữa bệnh huyết hư phát nóng, thổ huyết, băng huyết, chảy máu cam, kinh nguyệt không đều, động thai; bệnh thương hàn, ôn dịch, phát ban chẩn, cổ họng sưng đau, huyết nhiệt, tân dịch khô. Ngày dùng 8-16g, có thể dùng đến 40g.
  • Thục địa dùng trị thận âm suy sinh ra các chứng nóng âm ỉ, bệnh tiêu khát (đái đường), đau họng, khí suyễn (khó thở), hư hoả bốc lâm sinh xuất huyết, làm sáng mắt, điều kinh, bổ huyết, sinh tinh, làm cho cơ thể tráng kiện. Ngày dùng 12-40g.
  • Kiêng kị: Sắt
  • Trong y học cổ truyền Trung Quốc, địa hoàng tươi được dùng trị âm suy trong các bệnh sốt có triệu chứng lưỡi đỏ sẫm và khát, ban da, có những vết ở da, khạc ra máu, chảy máu cam, đau họng.
  • Địa hoàng không chế biến dùng chữa sốt với lưỡi đỏ sẫm và khát, âm suy với nhiệt bên trong, khạc ra máu, chảy máu cam, ban da và có những vết ở da.

Bài thuốc có địa hoàng:

1. Chữa suy nhược cơ thê, suy nhược thần kinh, ỉa chảy mạn tính ở người cao tuổi: thục địa 16g; sơn thù, hoài sơn mỗi vị 12g; trạch tả, đan bì, phục linh, phụ tử chế mỗi vị 8g; nhục quế 4g. Tất cả sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.

2. Trị dương minh ôn bệnh, không có chứng ở thượng tiêu, hàng ngày không đại tiện được, thường phải dùng thuốc hạ, do cơ thể vốn hư, không dùng bài Thừa Khí được: Nguyên sâm 40g, Mạch môn (để lõi) 32g, Sinh địa 32g, sắc với 8 chén nước, còn 3 chén. Khi nào thấy miệng khô thì uống. Hễ chưa đi tiêu được thì uống tiếp (Tăng Dịch Thang – Ôn bệnh Điều Biện).

 3. Trị ôn độc phát ban, đại dịch khó cứu: Sinh địa 240g, Đậu xị 480g, Mỡ heo 960g. Sau khi nấu sôi 5,6 lượt, còn chừng 3 phần thì thêm Hùng hoàng, Xạ hương, đều to bằng hạt đậu, trộn đều, uống. Độc xuất ra da là khỏi (Hắc Cao – Trửu Hậu phương).

4. Trị chảy máu cam, vùng trên ngực có nhiều nhiệt: Can địa hoàng, Long não, Bạc hà. Lượng bằng nhau, uống với nước lạnh (Tôn Đào phương).

5. Trị chảy máu cam, tái đi tái lại không khỏi: Sinh địa, Thục địa, Câu kỷ tử, Địa cốt bì, đều bằng nhau. Mỗi lần uống 8g uống với mật ong, ngày 3 lần (Địa Hoàng Ẩm – Xích Thủy Huyền Châu).

6. Trị trường phong tạng độc, máu ra hồng tươi: Sinh địa, Hoàng bá (sao), mỗi thứ 1 cân. Tán bột, trộn với mật ong làm hoàn, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 80-90 viên với nước cơm, lúc đói, trước bữa ăn (Bá Hoàng Hoàng – Xích Thủy Huyền Châu).

7. Trị huyết nhiệt, tiểu ra máu: Sinh địa 8g, Hoàng cầm (sao) 20g, A giao (sao), Trắc bá diệp (sao), đều 4g. Sắc uống sau bữa ăn (SinhĐịa Hoàng Tán – Xích Thủy Huyền Châu).

8. Trị có thai mà bị ra huyết: Can khương (bào) 40g, Can địa hoàng 240g. tán bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần dùng 1 thìa, uống với rượu (Can Khương Địa Hoàng Tán – Phổ Tế Phương).

9. Trị huyết trưng: Can địa hoàng 40g, Ô tặc cốt 80g. Tán bột. Chia làm 7 lần uống với rượu (Địa Hoàng Tán – Phổ Tế phương).

10. Trị táo bón do âm hư trở thành thói quen: Thục địa 80g, sắc với thịt nạc heo, uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

11. Trị huyết áp cao: Mỗi ngày dùng 20-30g Thục địa liên tục trong 2-3 tuần. Trị 62 ca kết quả tốt, Huyết áp và Cholesterol đều hạ, Triglycerid giảm, điện não đồ và điện tâm đồ đều được cải thiện (Trung Dược Học).

12. Trị tiểu đường: Thục địa 12g, Thái tử sâm 16g, Sơn dược 20g, Ngũ vị tử 8g, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).


Công dụng và liều dùng

Sinh địa

Theo YHCT, Sinh địa có vị ngọt hơi đắng, tính hàn, vào 4 kinh Tâm, Can, Thận và Tiểu trường, có tác dụng thanh nhiệt, mát máu, ức chế huyết đường, lợi tiểu, mạnh tim nên thường được dùng trong các bệnh thiếu máu, suy nhược, tiểu đường, chảy máu, rong kinh. Theo Dược điển, ngày dùng 9-15g dưới dạng thuốc sắc hoặc phối hợp với các vị thuốc khác do lương y kê đơn.

Trong trường hợp thiếu máu, hành kinh gián đoạn, con gái chậm kinh hoặc hành kinh lượng ít, máu sẫm không tươi thì dùng:

Sinh địa      20g

Hối đầu thảo      10g

Sắc uống trong ngày, dùng 5 thang là khỏi.

Trường hợp bệnh nhân bị nhiệt nóng âm, gầy rộc hoặc do mất máu sinh thiếu máu, trẻ em máu nóng sinh ra mụn nhọt, nổi hạch thì dùng:

Sinh địa      20g

Huyền sâm      10g

Sắc uống trong ngày, dùng 5 thang là khỏi.

Hai công thức trên là của cố Lương y Lê Trần Đức-Viện Y học cổ truyền dùng có kết quả tốt.

Ngoài ra, trong trường hợp bệnh nhân bị đái tháo đường, gầy yếu, chậm chạp, khát nước nhiều thì dùng Sinh địa Hoàng liên hoàn (Công thức của Thiên Kim

Phương)

Sinh địa      400g

Hoàng Liên      300g

Tất cả tán nhỏ, trộn mật ong rồi viên nhỏ bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 20 viên. Dùng hết, lượng đường huyết sẽ giảm.

Thục địa

Thục địa là rễ của Địa hoàng đã được nấu chín. Song việc chế biến Thục địa rất cầu kỳ. ở Trung Quốc người ta chế theo phương thức “Cửu trưng, cửu sái” tức là chín lần nấu, chín lần phơi. Còn ở Việt nam, Dược điển quy định như sau: Sinh địa rửa sạch cho vào thùng, củ to ở dưới, củ nhỏ ở trên. Cứ 90kg Sinh địa cho 10 lít rượu 400. Đun to lửa đến khi sôi rồi tiếp tục đun nhỏ lửa trong 6-8 giờ cho đến cạn nước (trong khi đun cứ khoảng 1 giờ lại múc nước ở dưới nồi tưới lên trên cho củ chấm đều). Sau đó vớt ra phơi, rồi lại nấu. Làm như vậy 5-7 lần, tuỳ theo, đến khi dược liệu đen nhánh là được.



Thục địa vị ngọt, tính ấm, vào 3 kinh: Tâm, Can, Thận có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, bổ thận, sáng mắt, thính tai, đen râu tóc (tư dưỡng), làm cường tráng cơ thể, người lao tâm khổ tứ lo nghĩ, hoại huyết nên dùng. Liều dùng 8-16g một ngày, có thể dùng tới 40g dưới dạng thuốc sắc hoặc phối hợp với các loại thuốc khác.

Bài thuốc Tứ Vật. (Theo Thuốc  bổ cho phụ nữ) gồm:

Xuyên khung      6g

Đương quy      12g

Thục địa      12g

Bạch thược      8g

Sắc uống trong ngày; Dùng 5-10 thang.  Để chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược, kinh nguyệt không đều, đau ở rốn, đẻ xong lâu sạch, máu hôi chảy kéo dài.

Bài Lục vị Địa hoàng hoàn (Theo Trung y)

Thục địa      320g

Sơn thù du      160g

Hoài sơn      160g

Mẫu đơn bì      120g

Bạch phục linh      120g

Trạch tả      120g

5 vị ở dưới được sấy khô rồi tán thành bột. Thục địa giã cho mềm nhũn, thêm mật ong. Tất cả trộn thật đều rồi viên thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 20-30 viên (tương đương 8-12g) uống trước bữa ăn.

Chữa đau đầu, chóng mặt, cổ khô đau, miệng lưỡi lở loét, tai ù, răng lung lay, lưng đau gối mỏi, di tinh, mộng tinh, đổ mồ hôi trộm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, trẻ em gầy yếu.

Gửi Bình luận

Please login or register to review